Đại sứ quán Australia
Việt Nam

Speech by FM Kevin Rudd: Australia và Việt Nam: Là những đối tác định hình cấu trúc khu vực trong thế kỷ 21

Australia và Việt Nam: Là những đối tác định hình cấu trúc khu vực trong thế kỷ 21

Trường Đại học RMIT, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

Ngày 13 tháng 4 năm 2011

 

Tôi hân hạnh được có mặt tại thành phố Hồ Chí Minh trong chuyến thăm đầu tiên của tôi tới Việt nam.

Tôi đến đây vào thời điểm có những bất ổn lớn toàn cầu với những làn gió thay đổi đang thổi khắp khu vực Trung Đông.

Tôi đến vào thời điểm đang có nhiều sự phân cực diễn ra nhanh chóng trên toàn cầu, với sự phát triển của Trung Quốc và sự nổi lên của Ấn Độ.

Tôi cũng đến đây khi khu vực của chúng ta đang đối mặt với cả những thách thức lớn và những cơ hội lớn.

Mới đây thôi chúng ta đã phải đối mặt với thảm hoạ thiên tai lớn.

Chúng ta đang ở trong một khu vực chịu ảnh hưởng của việc phổ biến hạt nhân – từ Bắc Triều Tiên tới Iran.

Chúng ta đang phải đương đầu với những tranh chấp lãnh thổ chưa giải quyết được – Bán đảo Triều tiên, vùng lãnh thổ phía Bắc Nhật Bản, Biển Đông Hải, Biển Nam Hải, biên giới Thái Lan – Campuchia, biên giới Trung Quốc – Ấn Độ và rồi Kashmir.

Cũng vào lúc này, các nền kinh tế của chúng ta đang hội nhập sâu rộng hơn bất kỳ thời gian nào trong lịch sử.

Tất cả những thử thách lớn này của thế kỷ 21 vì vậy đặt ra tầm quan trọng tối đa của việc phải có các thể chế hợp tác, thay vì phải dùng đến những giải pháp thô thiển mang tính đối đầu và xung đột có sẵn thường gặp trong thế kỷ 20.

Bởi vì mỗi một trong những thách thức lớn này lại mang tới một cơ hội tốt – nghĩa là chúng ta có thể cùng nhau hình dung những tương lai khác nhau, hơn là bị bó hẹp trong những định kiến cổ hủ.

Sự thực là trong tầm tay của mình, chúng ta có thể hình thành được các thể chế, văn hoá, thói quen, tập quán, thậm chí cả phương thức hợp tác và cộng tác cho khu vực.

Và làm như vậy chúng ta sẽ củng cố một trật tự khu vực vận hạnh theo quy tắc để có thể mang lại an ninh, cơ hội và sự thịnh vượng cho tất cả - cho cả các cường quốc và những quốc gia nhỏ bé hơn, cho cả các bên đồng minh và không đồng minh, cho cả các nước phát triển và các nước đang phát triển.

Và hai quốc gia của chúng ta, Australia và Việt Nam, mặc dù khác nhau lớn về lịch sử, đang cùng nhau vững bước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương năng động, là tâm điểm của sức mạnh toàn cầu của thế kỷ 21 – cùng nhau chúng ta sẽ có cả cơ hội và trách nhiệm, để xây dựng một tương lai an toàn, thịnh vượng và bền vững.

Hành khúc Việt Nam

Đây là chuyến thăm đầu tiên của tôi đến Việt Nam với tư cách là Bộ trưởng Ngoại giao.

Tôi nhận ra tính chất cổ xưa của đất nước và nhân dân các bạn. Tôi nhận ra tôi đang ở đây trong một nền văn minh cổ đại và một nhà nước chính trị với hơn một thiên niên kỷ của nền lịch sử liên tục. Tôi cũng nhận ra được trí tuệ cổ xưa của vùng đất này.

Một vùng đất nơi mà người dân nhận thức sâu sắc vị trí của mình trong lịch sử.

Hoặc giống như một câu châm ngôn của người Việt đã nói: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.

Tôi ý thức được chiến thắng của các bạn đối với chủ nghĩa đế quốc Pháp. Tôi cũng ý thức được về thống nhất của Việt Nam vào Năm 1975.

Năm nay đánh dấu một phần tư thế kỷ kể từ năm 1986 khi các nhà lãnh đạo của Việt Nam giải phóng sức mạnh của nền kinh tế non trẻ.

Được thúc đẩy bởi chương trình cải cách kinh tế vĩ đại mang tên Đổi Mới, nền kinh tế Việt Nam đã được chuyển đổi.

Trong thập kỷ trước, Việt Nam đã nổi lên từ kinh nghiệm đau thương trong chiến tranh. Đất nước đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.

GDP bình quân đầu người từng rất thấp, tương đương US$200 giá trị hiện tại và nền kinh tế chỉ tăng trưởng trung bình 3,7 % mỗi năm trong thập kỷ đến năm 1986.

Nhưng với chương trình cải cách Đổi Mới, thị trường đã được giải thoát khỏi sự kiểm soát nhà nước, cải cách ruộng đất được thực hiện, nông dân được phép chọn những gì để sản xuất với số lượng bao nhiêu, nguồn cung thực phẩm phát triển nhanh và việc hạn chế lương thực biến mất.

Việt Nam thay đổi từ bị lệ thuộc vào nhập khẩu lương thực của nước ngoài để trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới.

Và, nhờ Đổi Mới, Việt Nam mở cửa nền kinh tế ra thế giới bên ngoài: độc quyền kinh doanh nhà nước được bãi bỏ, các rào cản thương mại quốc tế được gỡ bỏ, và cuối cùng - một cú huých mới cho công cuộc cải cách trong nước - Việt Nam gia nhập WTO.

Việt Nam là một quốc gia thương mại: giá trị xuất nhập khẩu hiện nay tương đương với 160% GDP.

Những cải cách này đã phát triển nhanh chóng nền kinh tế đất nước, tăng nhanh thu nhập của người dân và giúp hàng chục triệu người thoát nghèo.

GDP bình quân đầu người đã tăng lên năm hoặc sáu lần kể từ trước cải cách, đạt khoảng US $ 1,200, có nghĩa là Việt Nam đang dần tiến đến cấp bậc của các quốc gia có thu nhập trung bình trên thế giới.

Tỷ lệ người Việt nghèo đã giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống khoảng 13% hiện nay.

Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và trẻ em dưới năm tuổi đã giảm một nửa kể từ năm 1990.

Bệnh bại liệt đã được loại trừ, bệnh sởi và uốn ván nơi bà mẹ và trẻ sơ sinh đã gần như được loại trừ, ảnh hưởng của bệnh sốt rét đã giảm xuống.

Tuổi thọ đã tăng từ 49 tuổi năm 1970 lên 75 trong năm 2010.

Gần 97% trẻ em đang học tại các trường tiểu học, tăng từ 87% vào năm 1990, mang lại lợi ích giáo dục to lớn.

Người Việt Nam được kết nối với nhau và với cả thế giới: cả nước có 98 triệu điện thoại di động, số điện thoại nhiều hơn số người, và 23 triệu người sử dụng internet.

Đây là những thành tựu to lớn. Điều đó có nghĩa Việt Nam ngày nay rất khác so với cách đây 36 năm. Những thành tựu này đã thiết lập cho Việt Nam một quỹ đạo tiềm năng để tham gia vào những nền kinh tế lớn của thế giới vào giữa thế kỷ.

Một thập kỷ trước, Goldman Sachs đã đặt ra khái niệm BRICs - để nắm bắt được sự thay đổi về quyền lực đang diễn ra đối với các nền kinh tế lớn mới nổi như Brazil, Ấn Độ và Trung Quốc.

Năm ngoái, Economist đặt ra một thuật ngữ mới, CIVETS (Colombia, Indonesia, Vietnam, Egypt, Turkey and South Africa), để xác định nhóm sáu nền kinh tế mới nổi có khả năng duy trì tăng trưởng dài hạn.

Chữ V là viết tắt của Việt Nam, do những thành tựu gần đây của Việt Nam xứng đáng với vị trí của Việt Nam cùng với Colombia, Indonesia, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi như là một trong những thị trường của tương lai.

Việt Nam dự kiến duy trì tăng trưởng trên 7% trong năm năm tới, và duy trì tăng trưởng cao hơn 5% cho 20 năm tiếp theo.

Việt Nam có thể thu hút 10 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm nay, lên mười lần chỉ trong một thập kỷ, và sẽ tăng lên đến 15 tỷ USD vào năm 2015.

Lãnh đạo của Việt Nam xứng đáng được tín nhiệm, doanh nghiệp của Việt Nam và cộng đồng doanh nghiệp xứng đáng được tin cậy, và nhân dân Việt Nam xứng đáng được khen ngợi.

Đó là bởi vì nhờ lòng quyết tâm và sự làm việc chăm chỉ của họ đã mang đến thành công rực rỡ cho đất nước.

Việt Nam và Khu vực

Vị thế và vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới đã và đang được tăng cường cùng với sự phát triển của nền kinh tế của mình.

Năm 2006, Việt Nam đã chào đón các nhà lãnh đạo trong khu vực trong thời gian Việt Nam làm chủ tịch của Hội nghị các nhà lãnh đạo APEC.
Năm 2007 Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.
Năm 2008 và 2009 Việt Nam là uỷ viên của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Năm 2010 Việt Nam là Chủ tịch ASEAN và chủ nhà của Hội nghị Cấp cao Đông Á.

Việt Nam là một dân tộc có lịch sử lâu đời, nhưng con người Việt nam rất trẻ, có nền kinh tế phát triển nhanh và có chính sách ngoại giao năng động “làm bạn với tất cả các nước”.

Việt Nam sẽ đóng vai trò đáng kể trong sự lãnh đạo chung trong khu vực trong thế kỷ 21 này.

Cũng như Việt Nam, khu vực này có sự phát triển bền vững và chưa từng có trong suốt bốn thập kỷ qua.

Sự phát triển này đang làm thay đổi thế giới chúng ta sống: trọng tâm chiến lược và kinh tế toàn cầu đang chuyển dần sang khu vực này.

Chúng ta hãy xem xét một vài con số sau đây.

Trong 25 năm từ 1990 đến 2015, IMF dự báo rằng sự đóng góp của khu vực Đông Á cùng với Ấn Độ trong sản lượng toàn cầu sẽ tăng từ 20 phần trăm năm 1990 lên đến gần 30 phần trăm vào năm 2015.

Đến năm 2030 chúng ta có thể sẽ đóng góp tới 40 phần trăm vào GDP toàn cầu.

Trung Quốc, nền kinh tế lớn nhất khu vực, sẽ có sản lượng tăng tới 25 lần trong 25 năm tới 2015, và sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới tới năm 2030 thậm chí có thể sớm hơn.

Theo một số dự báo, Ấn Độ cũng có thể là đối thủ của Hoa Kỳ tính theo quy mô nền kinh tế, có thể vào khoảng giữa thế kỷ này.

Sự gia tăng sức mạnh kinh tế cũng sẽ dẫn đến gia tăng chi tiêu và sức mạnh quốc phòng trong khu vực của chúng ta.

Chẳng hạn như Trung Quốc nay đã chi gấp 6 lần so cho quốc phòng so với 20 năm trước đây. Các nước khác cũng sẽ gia tăng chi tiêu quốc phòng.

Thế giới hiện đã ít phân cực hơn so với 40 năm trước đây. Sự tương quan sức mạch hiện đã thay đổi nhanh chóng hơn. Và có nhiều điều cần được đàm phán giữa các nền kinh tế lớn và vừa trong thế kỷ 21 này.

Điều này đặc biệt đúng đối với khu vực Đông Á của chúng ta.

Các nước trong khu vực của chúng ta vì vậy cần định hình cho sự hợp tác chung trong toàn khu vực dựa trên các quy tắc – trong một loạt vấn đề về quan hệ chính trị, kinh tế và đặc biệt là an ninh – nếu chúng ta muốn duy trì sự thịnh vượng chúng ta đã có được cho đến nay.

Chúng ta không quên rằng chiến tranh có thể tàn phá mọi thứ.

Lịch sử đã dạy chúng ta rằng sự thịnh vượng có thể trở thành tro tàn nếu như an ninh không được đảm bảo.

Như những người bạn Châu Âu của chúng ta đã rút ra được những bài học cay đắng cho mình trong nhiều thế kỷ qua, chúng ta cần phát triển một cơ chế và tinh thần hợp tác để bảo đảm sự an ninh chung.

Đặc biệt khi mà khu vực rộng lớn hơn của chúng ta đang còn nhiều các tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết.

Trong bối cảnh này, ASEAN đã dẫn đầu. Trong những năm 1970 khu vực gồm 10 quốc gia này từng bị chia rẽ vì các xung đột. 35 năm sau, ASEAN đã xây dựng lên một sự tin cậy khu vực, sự hoà bình và phát triển mà khó có thể hình dung được vào thời gian trước kia.

ASEAN đã đạt được một sự hiểu biết chung thực sự về vấn đề an ninh trong toàn bộ mười thể chế chính trị rất khác nhau trong khu vực.

Cái mà chúng ta cần hiện nay là mở rộng tinh thần hiểu biết chung về an ninh này trong một khu vực rộng hơn, để bắt đầu tạo lên một trật tự khu vực dựa trên quy tắc cho Thế kỷ 21.

Để làm điều đó, chúng ta cần một cơ chế đúng đắn, một cấu trúc khu vực đúng đắn đem lại các diễn đàn đúng đắn cho đối thoại tin cậy, thẳng thắn giữa các quốc gia khu vực về các thách thức an ninh chủ chốt mà chúng ta đối mặt.

Cả Australia và Việt Nam đều hiểu điều đó một cách sâu sắc, vì thể chúng ta đã làm việc với nhau rất tích cực để phát triển Hội nghị Cấp cao Đông Á mà chúng ta là những thành viên sáng lập.

Và điều này giải thích vì sao mà thành công của Việt Nam với tư cách là Chủ tịch ASEAN và chủ nhà của Hội nghị Cấp cao Đông Á năm ngoái là rất đáng kể.

Việt Nam đã giúp tất cả chúng ta tập trung vào “các quy tắc cho hướng đi” trong Châu Á – điều mà chúng ta mong chờ từ tất cả các nước trong khu vực này nếu chúng ta muốn thành công.

Việt Nam đã làm rõ cách tiếp cận chúng ta cần có để giải quyết các căng thẳng liên quan đến vấn đề Biển Nam Hoa.

Hội nghị Cấp cao tại Việt Nam cũng đã giúp chúng ta tập trung vào vấn đề cấu trúc khu vực và sự cần thiết mở rộng Hội nghị Cấp cao Đông Á:
• để làm sao chúng ta có được một thể chế bao trùm tất cả các bên chủ chốt trong khu vực bao gồm cả các nước ASEAN, cũng như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga, Australia và New Zealand;
• để chúng ta có được một thể chế với nhiệm vụ hợp tác về toàn bộ các thách thức chính trị, an ninh và kinh tế trong khu vực;
• và để chúng ta có được một tiến trình hội nghị thể chế cấp cao có thể đưa ra các quyết định chiến lược cho tương lai khu vực.

Điều này thực sự cũng là một mục tiêu cốt lõi của Australia khi Australia đề xuất ý tưởng một cộng đồng Châu Á – Thái Bình Dương.

Năm ngoái, dưới sự chủ trì của Việt Nam, Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN +8 đã mở rộng thêm thành viên.

Như Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã nói vào tháng 10 năm ngoái:
“Việc mời Nga và Hoa Kỳ tham gia vào EAS là một quyết định chiến lược của ASEAN để biến EAS thành một diễn đàn vì sự hợp tác tại cấp cao với phạm vi mở rộng hơn trong khu vực.”

Nay khu vực rộng lớn hơn này đã là có được một diễn đàn với thành viên phù hợp và nhiệm vụ phù hợp.

Giờ chúng ta cần làm việc với nhau để làm mạnh mẽ nghị sự của thể chế này.
Một nghị sự chính thức cần có:
• một đối thoại thực chất hơn tại cấp lãnh đạo về các vấn đề an ninh;
• các mối liên hệ trực tiếp hơn đến Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN +8 và công việc của Diễn đàn Khu vực ASEAN;
• một vai trò lớn hơn nữa cho EAS trong một loạt các vấn đề an ninh thiết thực.

Tôi đánh giá cao vai trò lãnh đạo của Việt Nam trong một loạt các thách thức này.

Sự lãnh đạo như vậy sẽ giúp khu vực của chúng ta có được những quốc gia mạnh mẽ, cởi mở, có thể trao đổi một cách tin cậy lẫn nhau thông qua tinh thần đối thoại và hợp tác giúp đảm bảo an ninh chung.

Những thách thức của Việt Nam

Lịch sử 25 năm qua đã chứng kiến những tiến bộ phi thường như vậy, vậy 25 năm tới chúng ta sẽ ở vị thế nào?

Việt Nam sẽ như thế nào vào năm 2025? Bởi vì tương lai của Việt Nam cần sự đóng góp của các sinh viên của trường đại học có tiếng này.

Con người của bất kỳ thời đại, kỷ nguyên nào cũng đều phải đương đầu với những thách thức của sự cải cách không ngừng.

Vào giữa thập niên 80, Chính phủ Australia đối mặt với thách thức của quá trình hiện đại hóa mà trước đây đã là một nền kinh tế được bảo hộ cao, ẩn sau nó là bức tường thuế quan cao ngất ngưởng và một tỉ giá hối đoái cố định.

Những cải cách được thực hiện trong thập kỷ 80 và 90 – thả nối đồng đô la, giảm thuế quan tới gần mức 0%, mở cửa nền kinh tế cho cạnh tranh toàn cầu, cải cách chính sách cạnh tranh nội địa, một chính sách tiền tệ độc lập, duy trì kỷ cương tài khóa, và tiếp tục chương trình cải cách kinh tế vi mô đã tạo một nền tảng cho 2 thập kỷ phát triển kinh tế không ngừng, bất kể cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khi các nền kinh tế chủ chốt khác đều bị suy thoái.

Trước mắt đối với Australia là một cuộc cải cách quan trọng khác – bao gồm cả việc đánh giá khí thải, hiệu ứng nhà kính, và xây dựng cơ sở vật chất cho thế kỷ 21.

Cải cách kinh tế là một quá trình không bao giờ chấm dứt.

Ở Việt Nam cũng tương tự như vậy.

Những cải cách được thực hiện trong một phần tư thế kỷ qua đã tạo cho Việt Nam một nền tảng vững chãi cho sự phát triển.

Nhưng cũng cần thiết phải thấy khả năng lãnh đạo của Việt Nam trong việc phát động và quản lý một làn sóng cải cách mới cho tương lai.

Chính sách đề ra cho cải cách kinh tế trong 25 năm đầu của thế kỷ đang được thực hiện:
• ổn định hệ thống tài chính để đảm bảo khả năng tài chính;
• xây dựng cơ sở hạ tầng ở các thành phố và các vùng miền để đảm bảo năng suất lao động tối ưu ở cả khu vực thành thị và nông thôn, và cho phép nó thâm nhập vào các thị trường trong khu vực ASEAN và các thị trường nước ngoài khác; và
• xây dựng nền tảng kỹ năng để có thể tận dụng tối đa những lợi ích từ việc toàn cầu hóa mà bản thân Việt Nam cũng đã mở cửa thực hiện quá trình này.

Dân số thể hệ trẻ, năng động của các bạn sẽ đạt 100 triệu vào năm 2020.

Yếu tố này chính là một cơ hội lớn nếu tiềm năng hữu ích của các bạn được nhận biết một cách toàn diện.

Và tiếng nói trẻ trung của các bạn, giống như của thanh niên trên thế giới, sẽ muốn được lắng nghe trên một hệ thống ngày càng đa nguyên nơi mà những thách thức tiếp diễn về quyền con người cần tiếp tục được giải quyết.

Australia: Một quan hệ đối tác mới với Việt Nam

Australia mong muốn xây dựng một mối quan hệ hợp tác mới với Việt Nam cho một tương lai lâu dài.

Australia là quốc gia có diện tích đất lớn thứ 6 trên thế giới.

Chúng tôi là nền kinh tế lớn thứ 13 trên thế giới.

Chúng tôi là nền kinh tế lớn thứ 4 ở châu Á.

Chúng tôi là thành viên sáng lập của Liên hiệp quốc, nhóm G20, APEC, ARF và EAS.

Chúng tôi cũng là thành viên hay quan sát viên của hầu hết các hội đồng chủ chốt trên thế giới.

Australia là một quốc gia trung gian cho những mối quan tâm toàn cầu – và đặc biệt tập trung vào những mối quan tâm khu vực.

Chúng tôi cam kết thực hiện nguyên tắc quyền công dân quốc tế tốt mà qua đó chúng tôi mong muốn tăng cường một trật tự dựa trên cơ sở các qui tắc khu vực và toàn cầu. Về an ninh, chính trị, kinh tế, hỗ trợ nhân đạo, phát triển, và môi trường.

Đây là mối quan tâm của mỗi người dân cũng như của toàn quốc gia nhằm tăng cường một trật tự dựa trên cơ sở các qui tắc trên tất cả các lĩnh vực này.

Xu hướng toàn cầu hóa yêu cầu chúng tôi phải làm như vậy.

Nếu không thì sẽ là tình trạng hỗn loạn.

Trong trường hợp của Australia, chúng tôi luôn tìm kiếm các cơ hội nâng cao viêc tuân thủ các luật lệ và thỏa thuận thông qua quan hệ ngoại giao sáng tạo của một quốc gia có sức mạnh bậc trung.

Trong những năm gần đây chúng tôi đã thực hiện điều đó, cùng với các vấn đề khác:
• trong vấn đề hòa giải ở Cambodia;
• thương thảo tại các hội nghị về vũ khí hóa học và Hiệp ước Nghiêm cấm Thử nghiệm Toàn diện;
• thành lập Nhóm Cairns của các nước mậu dịch tự do;
• thành lập Nhóm G20;
• thúc đẩy ý tưởng cộng đồng Châu Á-Thái Bình Dương; và
• gần đây nhất là trong quan hệ ngoại giao quốc tế với việc ủng hộ cho một vùng cấm bay ở Libya

Chúng tôi cũng có các hoạt động ngoại giao năng động trong khu vực.

Chúng tôi là nước đổi thoại nước ngoài đầu tiên của ASEAN.

Đất nước và nhân dân chúng tôi có sự liên kết chặt chẽ với các nền văn hóa đa dạng và các nền kinh tế tuyệt vời của Châu Á.

Hơn hai phần ba mậu dịch của Australia là với Châu Á, và Châu Á tiêu thụ ba phần tư hàng xuất khẩu của Australia.

Và vì thế sự thành công của ASEAN và khu vực Đông Á rộng lớn hơn là mấu chốt của sự thành công của Australia.

Sự cam kết mạnh mẽ của Australia đối với khu vực này là trọng tâm của các mối quan tâm của đất nước chúng tôi. Và sự thành công của Việt Nam là sự thành công của Australia.

Australia và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1973, khi chiến tranh Việt Nam sắp kết thúc.

Sự trao trả hài cốt của những người lính Australia mất tích khi làm nhiệm vụ cuối cùng trong cuộc chiến đó đã khẳng định những gì chúng ta cùng có chung trong lịch sử, mặc dù sự hy sinh và mất mát khủng khiếp của cả hai phía sẽ không bao giờ bị quên lãng.

Mối quan hệ chúng ta cùng nhau chia sẻ hiện nay không thể khác hơn mối quan hệ chúng ta có 38 năm về trước.

Thật vậy, Australia công nhận Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng nhất của chúng tôi trong khu vực – hiện đang quan trọng, và sẽ càng quan trọng hơn khi chúng ta cùng tiến vào thế kỷ 21.

Tôi vui mừng thấy rằng mối quan tâm của chúng tôi được phía Việt Nam tiếp nhận.

Đó là lý do vì sao chúng tôi nâng mối quan hệ lên một tầm cao mới, có thể thấy rõ nhất thông qua Thoả thuận Đối tác Toàn diện năm 2009, tôi đã chứng kiến việc ký kết Thảo thuận này tại Canberra với vai trò là Thủ tướng Australia cùng với Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh.

Trong khuôn khổ Thoả thuận này, chúng ta xây dựng một sự hợp tác thực sự toàn diện:
• thứ nhất là hợp tác chính trị và an ninh song phương và đa phương thông qua
ARF, và ADMM và EAS.
• thứ hai, hợp tác kinh tế thông qua hợp tác thương mại, đầu tư và phát triển.
• thứ ba, hợp tác giữa người và người thông qua nhịp cầu quan trọng của giáo dục.

Đây là những điểm mấu chốt của Thoả thuận Đối tác Toàn diện chúng ta vừa ký với nhau trong năm 2009.

Trong 3 năm vừa qua, chúng tôi đã đón tiếp
. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh
. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
. Chủ tịch Quốc hội, bây giờ là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Tôi đã từng nói về sự hợp tác gần gũi về chính trị và an ninh mà chúng ta đang theo đuổi tại Hội nghị Cấp cao Đông Á và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN +8 để xây dựng nghị sự của các thể chế này.

Về hợp tác song phương, chúng ta cũng đang làm sâu sắc hơn các mối quan hệ về quân sự thông qua Biên bản Ghi nhớ về Quân sự được ký kết gần đây. Chúng tôi có kế hoạch tăng cường các hoạt động hợp tác đào tạo.

Australia đã giúp đào tạo sỹ quan Việt Nam hơn 10 năm nay, cung cấp các khóa đào tạo về ngôn ngữ cho 96 sỹ quan và đào tạo chuyên sâu tại các trường quân sự Australia cho 60 sỹ quan khác một năm.

Về thương mại, chúng ta đều là thành viên của Hiệp định Tự do Thương mại Australia New Zealand, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm ngoái.

Đây là bước tiến dài của cả Việt Nam và Australia trong việc giảm những chi phí giao dịch cho việc trao đổi thương mại hàng hóa và dịch vụ cho một khu vực dân cư có 600 triệu người và nền kinh tế trị giá 3,2 nghìn tỉ đô la Mỹ.

Và Australia rất vui được cùng làm việc với Việt Nam trong các đàm phán cho một Đối tác xuyên Thái Bình Dương.

Sự hợp tác của 9 quốc gia thành viên, trong đó có Hoa Kỳ, với tổng sản lượng kinh tế là 17 nghìn tỉ đô la Mỹ đã là rất đáng kể, nhưng nó còn tạo tiền đề cho một khu vực tự do thương mại Châu Á-Thái Bình Dương sau này.

Chúng tôi có những chương trình hỗ trợ phát triển nhanh nhất trong các nước phát triển, với nguồn tài trợ tăng gấp đôi trong 5 năm vừa qua và được dự đoán là sẽ tăng gấp đôi một lần nữa vào năm 2015.

Thông qua chương trình hỗ trợ được tăng đáng kể mà Australia dành cho Việt Nam, Australia giúp Việt Nam đạt được những mục tiêu phát triển – được hình tượng hóa thông qua hai cây cầu Mỹ Thuận và Cao Lãnh và Australia là nước cung cấp học bổng cho Việt Nam nhiều nhất trên thế giới.

Chúng tôi cũng đã giúp đỡ xây dựng đường xá, hệ thống tưới tiêu, các hạng mục liên quan đến điện, các trung tâm y tế và nhà văn hóa.

Những cơ sở hạ tầng này đã mang lợi ích đến cho 9 triệu người dân.

Trong lĩnh vực quản lý chính phủ, Australia đang giúp đào tạo về chính sách thương mại nhằm giúp các cơ quan Việt Nam đạt được những yêu cầu đặt ra về cải cách thương mại.

Chúng tôi cũng đang giúp đào tạo nhằm khuyến kích tính minh bạch và trách nhiệm giải trình giúp chống lại tham nhũng.

Chúng tôi cũng nhận thấy những tiến bộ của Việt Nam về vấn đề nhân quyền trong những năm gần đây.

Những tiến bộ này cũng được thể hiện qua thúc đẩy các quyền phát triển kinh tế - xã hội, quyền của phụ nữ và sự tự do tín ngưỡng.

Và chúng tôi cũng vui mừng trước việc bổ nhiệm đặc phái viên không thường trú của Giáo hoàng tại Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn quan ngại về việc bắt giữ những người đã thể hiện quan điểm chính trị, tôn giáo và những sự tin tưởng khác một cách hòa bình.

Australia đánh giá cao đối thoại song phương với Việt Nam về nhân quyền; chúng tôi đã tổ chức vòng đối thoại thứ 7 với các quan chức Việt Nam vào tháng 2 vừa qua.

Sự cởi mở hơn trong quản lý chính phủ và vấn đề nhân quyền nhìn chung sẽ mang lại lợi ích cho Việt Nam.

Australia hiện đang nỗ lực giúp Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để tận dụng các tiềm năng phát triển.

Như đã nói trên đây, dự án hỗ trợ lớn nhất mà chúng tôi dành cho Việt Nam – với sự đóng góp 160 triệu đô la cho việc thiết kế và xây dựng cầu Cao Lãnh – là minh chứng cho điều này.

Một cây cầu bắc qua nhánh sông Mekong sẽ là một phần quan trọng của hệ thống đường xá hạ tầng mới – Dự án Kết nối vùng Trung tâm Đồng bằng sông Mekong – giúp kết nối 5 triệu người với thị trường trong khu vực Đồng bằng và với khu vực Đông Nam Á.

Thay thế những chiếc phà qua sông, hiệu quả mà cây cầu này mang đến cho vùng này là rất lớn. Những hỗ trợ này của chúng tôi tiếp nối cho những đóng góp trước đây mà Australia đã dành cho việc xây dựng cầu Mỹ Thuận. Được đưa vào sử dụng từ năm 2.000, chiếc cầu này đã đưa 5 triệu phương tiện qua sông mỗi năm.

Australia cũng đang giúp đỡ tăng cường tính bền vững của môi trường cho nền kinh tế Việt Nam.

Cũng như Australia, Việt Nam sẽ cảm nhận được những tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là ở vựa lúa vùng Đồng bằng sông Mekong.

Australia hiện đang giúp đỡ nông dân ở vùng này thích nghi với những biến đổi của khí hậu thông qua những hoạt động của Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Australia nhằm tìm ra những giống lúa có thể chịu được điều kiện nước mặn có thể diễn ra do mực nước biển dâng cao.

Nếu như việc tối đa hóa năng suất của 100 triệu lao động trẻ sẽ là thử thách lớn nhất về kinh tế cho Việt Nam thì có lẽ con đường tốt nhất để thực hiện nó sẽ là phát triển kỹ năng cho lực lượng to lớn này.

Tôi biết Việt Nam đã đặt ra cho mình một mục tiêu rất ấn tượng: đưa hệ thống giáo dục của Việt Nam lên đạt các tiêu chuẩn thế giới vào năm 2020.

Việc này được thực hiện toàn diện từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, dạy kỹ thuật, dạy nghề và đào tạo liên tục cho người lớn.

Đào tạo sau Đại học có những mục tiêu đặc biệt ấn tượng: mà một trong đó là sẽ đào tạo 20.000 Thạc sỹ, trong đó 10.000 người được đào tạo ở nước ngoài.

Là Bộ trưởng Ngoại giao Australia, tôi tự hào là Australia hiện đang đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ đào tạo sau đại học, thông qua:
• 400 suất học bổng Australia được trao hàng năm trao cho sinh viên Việt Nam có thành tích cao
o điều này bổ sung cho 100 suất học bổng mà Chính phủ Việt Nam cấp cho sinh viên của mình để sang học tại Australia.

• 26.000 sinh viên Việt Nam đăng ký học tại các trường phổ thông, cao đẳng kỹ thuật, các cơ sở dạy tiếng Anh và các trường đại học, phần lớn là học tự túc.
• Và 15.000 sinh viên Việt Nam hiện đang theo học các khóa đào tạo của Australia ngay tại Việt Nam

Kết luận

Năm 2011 là một mốc quan trọng cho trường đại học tuyệt vời này.

RMIT đã được thành lập 138 năm trước tại Melbourne.

Đã 10 năm trôi qua kể từ khi RMIT được thành lập ở Việt Nam, trường đại học nước ngoài đầu tiên tại đây.

Chúng tôi tự hào về việc đó.

Từ một khởi đầu khá khiêm tốn, — tôi biết rằng những thế hệ sinh viên MBA đầu tiên đã phải vượt những con đường đồng đất trong những đôi ủng để đến trường – các bạn đã phát triển những trang thiết bị hạng nhất tại các cơ ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, và đào tạo nên 2.500 sinh viên tốt nghiệp rất đáng tự hào.

Tôi biết rằng Thủ tướng Chính phủ đã rất vui mừng để mở cơ sở mới của trường tại Hà Nội vào tháng mười năm ngoái.

Tôi rất vui mừng trước việc mở rộng cơ sở của trường tại thành phố Hồ Chí Minh.

Tôi ghi nhận tầm nhìn và sự làm việc chăm chỉ của RMIT đã đóng góp đáng kể vào việc xây dựng. kỹ năng cho Việt Nam.

Tôi ghi nhận sự hào phóng của Atlantic Philanthropies, thiếu đi những tài trợ này, các cơ sở của trường dường như không thể có được như hôm nay.

Và tôi ghi nhận tầm nhìn của chính quyền Việt Nam. Đặc biệt là tại Hà Nội, đã sáng suốt để phát triển một kế hoạch dài hạn, chú trọng đầu tư vào phát triển kĩ năng của thế hệ trẻ Việt Nam, bao gồm cả việc thông qua những trường đại học quốc tế như RMIT.

Vì vậy RMIT Việt Nam, tự hào với 6.000 sinh viên, là một phần quan trọng trongviệc nâng cao kĩ năng cho thế hệ trẻ Việt Nam.

Các bạn sinh viên có thể tự hào về những kết quả mà các bạn đạt được khi học tập tại các cơ sở đào tạo của Australia và Việt Nam.

Các bạn có thể tự hào về những thành tựu của đất nước các bạn

Các bạn nên vui mừng về tương lai của tổ quốc bạn

Phần tiếp theo của câu chuyện này - phát triển tiềm năng tăng trưởng của đất nước thông qua cơ sở hạ tầng, phát triển kỹ năng, cải cách kinh tế và sự phát triển chung của đất nước – sẽ là câu chuyện được viết tiếp bởi những người Việt Nam trẻ tuổi như các bạn.

Trách nhiệm của thế hệ trẻ các bạn là nắm bắt cơ hội từ giáo dục, bởi vai trò ngày càng quan trọng của đất nước bạn, bởi khu vực chúng ta là trung tâm kinh tế và chiến lược toàn cầu.

Đó là nhiệm vụ của thế hệ trẻ, kế thừa và phát triển những doanh nghiệp hàng đầu khu vực.

Để có những đóng góp vào các tạp chí khoa học của khu vực và thế giới.

Để thực hiện các bước đột phá mang lại tiến bộ công nghệ vượt bậc cho khu vực.

Tôi tin tưởng Việt Nam, tôi tin tưởng vào các bạn, và tôi tin rằng RMIT Vietnam sẽ mang lại cho bạn sự đào tạo tốt nhất có thể cho vai trò của bạn trong thế kỷ 21 năng động này – thế kỷ của Châu Á Thái Bình Dương.